Đại dịch Covid – 19 khiến lao động nữ ngành may mặc bị giảm 14% giờ làm

Untitled (1200 × 800 px) (10)

 

Dịch Covid -19 đã khiến giờ làm của các công nhân ngành gia công giảm đi nhiều, nặng nhất là với công nhân nữ ngành may mặc, họ bị giảm 14% số giờ làm so với trước dịch.

Chiều 18/5, Thạc sĩ Khuất Thu Hồng, Giám đốc Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS) đã phát biểu tại hội thảo về việc thúc đẩy bình đẳng giới và phục hồi kinh tế sau đại dịch. Qua buổi hội thảo, bà đánh giá dịch Covid – 19 đã gây nên rất nhiều hệ luỵ chưa có tiền lệ, làm tăng tỷ lệ thất nghiệp lao động nữ nhiều hơn lao động nam khi các doanh nghiệp mở cửa trở lại.

Theo nghiên cứu năm 2021, dịch Covid – 19 đã làm giảm 9% tổng số giờ làm việc, ảnh hưởng khoảng 5,1 triệu phụ nữ làm việc trong ngành dệt may. Nhiều lao động nữ ngành dệt may bị chuyển việc, tạm hoãn hợp đồng lao động và phải chịu tác động nặng nhất vì số giờ làm việc giảm 14% so với trước dịch. Trong khi đó đối với việc làm của nam giới ngành xây dựng, giao thông và hậu cần kho bãi, hành chính, quốc phòng chỉ bị giảm số giờ làm nhẹ, thậm chí còn tăng cao. 

Nhiều lao động nữ ngành dệt may bị chuyển việc, tạm hoãn hợp đồng lao động và phải chịu tác động nặng nhất
Nhiều lao động nữ ngành dệt may bị chuyển việc, tạm hoãn hợp đồng lao động do dịch Covid – 19

Theo bà Hồng, từ xa xưa phụ nữ luôn bị định kiến, rào cản với xã hội và điều đó đang làm cản trở phát huy năng lực để đóng góp nhiều hơn cho sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Bên cạnh đó, mức lương của lao động nữ còn thấp hơn nam giới gần 30% và  tỷ lệ phụ nữ bị xâm hại, bạo lực còn ở mức rất cao.

Việt Nam mặc dù đã có những bước tiến phát triển trong việc thu hẹp khoảng cách giới đối với phụ nữ như Luật Bảo hiểm xã hội đã có thêm chế độ thai sản cho nam giới, nghỉ chăm vợ sinh con. Vào năm 2035, Bộ luật Lao động đã giảm khoảng cách nghỉ hưu giữa nam và nữ từ 5 năm xuống còn 2 năm. Song khoảng cách giới vẫn còn tồn đọng về dài.

Tỷ lệ lao động nữ trong độ tuổi làm việc cao hơn nam giới tham gia bảo hiểm xã hội chiếm 60%, nhưng sẽ bị đảo ngược khi đến độ tuổi nghỉ hưu. Phụ nữ trên 65 tuổi sẽ có lương hưu từ bảo hiểm xã hội chiếm khoảng 16%, trong khi tỷ lệ nam giới là 27,3%. Và đến 80 tuổi thì tỷ lệ này sẽ giảm ở nữ còn 6,9% và ở nam là 25,9%.

Thạc sĩ Hồng nêu ra vấn đề: “Lao động nữ ngành gia công, may mặc phần lớn đến từ các làng quê và khi hết tuổi lao động họ sẽ trở về với đất đai, ruộng đồng. Nhưng phụ nữ ở làng quê chỉ sở hữu đất nông nghiệp thấp hơn nam giới 14% và đó là vấn đề nan giải cần giải quyết trong tương lai”.

Bà Đỗ Hồng Vân, Quyền trưởng ban nữ công, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, cho biết tuổi đời làm việc của công nhân dệt may, da giày dao động từ 25-40 (Trong giai đoạn sinh đẻ và nuôi con nhỏ). Độ tuổi này phụ nữ có sức khoẻ, sức bền nên được các doanh nghiệp chào đón rất nhiều. Đó cũng là ưu thế nhưng cũng là thách thức đối với lao động bởi họ chủ yếu chỉ được đào tạo sơ cấp hoặc tham gia một khóa học ngắn hạn dưới 3 tháng. Bên cạnh đó, trình độ lao động phổ thông và dưới phổ thông chiếm trên 80%. Vì vậy, cơ hội thăng tiến, thu nhập của nữ giới sẽ không bằng được nam giới.

 Do ảnh hưởng của dịch bệnh kéo dài, ngành dệt may, da giày thường sẽ tạo điều kiện cho lao động có nhu cầu tăng ca sau dịch. Điều đó đã làm ảnh hưởng đến việc chăm sóc con nhỏ và nghỉ ngơi của lao động nữ. Theo bà Vân, để tạo được môi trường làm việc an toàn, giảm thiểu tối đa nạn quấy rối tình dục ở lao động nữ thì cần đẩy mạnh thoả ước lao động tập thể. Đồng thời xây dựng thiết chế công đoàn tại các khu công nghiệp gắn liền với nhà ở, nhà trẻ, nơi khám chữa bệnh, giải trí cho gia đình và công nhân lao động. 

Doanh nghiệp tạo điều kiện cho lao động có nhu cầu tăng ca sau dịch
Doanh nghiệp tạo điều kiện cho lao động có nhu cầu tăng ca sau dịch

Bà Trần Thị Hồng Liên, Phó giám đốc văn phòng VCCI cùng chung quan điểm với bà Vân, cần nhấn mạnh hơn với doanh nghiệp về các chính sách phúc lợi, đặc biệt với lao động nữ. Khoảng 8.000 doanh nghiệp dệt may, da giày đang sử dụng 4,3 triệu lao động nữ, chiếm 75%. Hệ luỵ của tình trạng này đã làm ảnh hưởng đến lao động nữ là họ không chỉ chịu gánh nặng về công việc mà còn phải gánh thêm việc chăm sóc con cái và việc nhà.

Sau dịch, hầu hết các doanh nghiệp sẽ tiến hành phục hồi việc sản xuất, tăng giờ làm thêm nhiều lên, vì vậy rất cần đến lao động nữ. Theo bà Liên, để có thể tuyển dụng được số lượng lao động lớn thì việc trước mắt là cần giải ngân nhanh những gói an sinh của nhà nước như hỗ trợ tiền trọ, giảm bớt thủ tục để lao động sớm nhận được tiền. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần thêm các gói chăm sóc sức khỏe, quan tâm hơn đến lao động sau dịch. Đặc biệt, cần tuân thủ quy định của pháp luật về lao động, quan tâm đến lao động nữ nghỉ ốm, thai sản và chăm con nhỏ…….. để họ có thể gắn bó lâu dài với công ty cũng như để họ yên tâm hơn khi làm việc. Thời gian tới rất mong Nhà nước đưa ra những chính sách pháp luật như cần có thêm cơ chế hỗ trợ tài chính cho công nhân để họ có thể vượt qua được những cú sốc mà đại dịch gây ra.

Theo các chuyên gia khuyến nghị, để hình thành một đất nước phát triển về công nghiệp thì về lâu dài Việt Nam cần cải thiện khả năng tiếp cận các chế độ bảo hiểm xã hội và mức lương tốt cho lao động nữ. Luật Việt Nam cần sửa đổi bổ sung về chế độ nghỉ thai sản cho nam giới khi vợ sinh con để họ có thể chăm sóc và đỡ đần cho vợ mình. Nhà Nước Việt Nam nên có thêm chính sách cân bằng giữa công việc và cuộc sống cho lao động nữ trong việc tuyển dụng, trả lương công bằng hơn. 

Tại Việt Nam, chỉ số về sức khoẻ và sự sống còn của phụ nữ (đo bằng tỷ lệ tử vong của các bà mẹ, tỷ lệ giới tính khi sinh) rất đáng lo ngại. Việt Nam từ vị trí 138 vào năm 2016 đã tụt xuống thứ 152 vào năm 2021, điều này cho thấy Việt Nam đang tụt hạng trên bảng xếp hạng toàn cầu về chỉ số khoảng cách giới. Hệ luỵ của việc này là do tâm lý người Việt họ vẫn trọng nam khinh nữ. Hiện nay, ở Việt Nam có rất nhiều cặp vợ chồng lựa chọn giới tính thai nhi khi mang bầu khiến cho khoảng 46.000 bé gái không thể chào đời mỗi năm.

Nguồn vnexpress.net